Theo đó, đối tượng áp dụng là khách hàng vay vốn tại NHCSXH sử dụng vốn vay đúng mục đích nhưng bị rủi ro do nguyên nhân khách quan làm mất một phần hoặc toàn bộ vốn, tài sản chưa có khả năng trả nợ hoặc không có khả năng trả nợ ngân hàng.
Việc thực hiện xử lý nợ bị rủi ro trong hệ thống NHCSXH được áp dụng các biện pháp gia hạn nợ, khoanh nợ và xóa nợ tùy thuộc vào nguyên nhân dẫn đến rủi ro, mức độ rủi ro, số vốn, tài sản bị thiệt hại, khả năng trả nợ của khách hàng, đảm bảo đầy đủ hồ sơ pháp lý, đúng trình tự, khách quan và công bằng giữa các đối tượng vay vốn. Việc xem xét, xử lý nợ bị rủi ro được thực hiện tại thời điểm phát sinh nợ bị rủi ro hoặc theo từng đợt tối đa là 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đầy đủ hồ sơ theo quy định. Định kỳ 6 tháng hoặc khi có yêu cầu đột xuất, NHCSXH lập báo cáo kết quả xử lý nợ bị rủi ro theo mẫu tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định 08/2021/QĐ-TTg dưới hình thức văn bản giấy gửi qua dịch vụ bưu chính hoặc hình thức văn bản điện tử cho Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để theo dõi. Nội dung báo cáo của NHCSXH được lập theo từng biện pháp xử lý nợ theo địa bàn từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và theo từng chương trình tín dụng.
Cũng theo Quy định ban hành kèm theo Quyết định số 62/QĐ-HĐQT ngày 27/9/2021 quy định về nguyên nhân khách quan để được xử lý nợ bị rủi ro, bao gồm: các loại thiên tai theo quy định của pháp luật về phòng, chống thiên tai; địch họa, hỏa hoạn; các dịch bệnh liên quan tới vật nuôi và cây trồng xảy ra làm thiệt hại đến vốn, tài sản của dự án hoặc phương án vay vốn từ NHCSXH; Nhà nước thay đổi chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của khách hàng: không còn nguồn cung cấp nguyên vật liệu; mặt hàng SXKD bị cấm, bị hạn chế theo quy định của pháp luật; khách hàng phải thực hiện việc chuyển đổi sản xuất, kinh doanh theo quyết định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; biến động chính trị, kinh tế - xã hội, dịch bệnh ở nước nhận lao động của Việt Nam làm ảnh hưởng đến người lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài; doanh nghiệp tiếp nhận lao động bị phá sản, giải thể; doanh nghiệp tiếp nhận lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động do người lao động không đủ sức khỏe để làm việc hoặc không bảo đảm tay nghề hoặc do các nguyên nhân khách quan khác mà không do lỗi của người lao động dẫn đến việc người đi lao động ở nước ngoài phải về nước trước hạn; Khách hàng vay vốn là cá nhân hoặc có thành viên khác trong hộ gia đình (là nhũng người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung tại thời điểm khách hàng đề nghị xử lý rủi ro): mắc bệnh tâm thần; mắc bệnh hiểm nghèo; mắc bệnh khác dẫn đến mất năng lực hành vi dân sự; có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; bị bệnh cần chữa trị dài ngày theo quy định của Bộ Y tế; bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên; chết hoặc bị tuyên bố là đã chết; bị tuyên bố mất tích; vắng mặt tại nơi cư trú và không có thông tin xác thực về tung tích từ 02 năm liền trở lên, tính từ thời điếm biết được tin tức cuối cùng về khách hàng vay vốn. Các khoản nợ phải thu hồi theo bản án, quyết định của Tòa án nhưng người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án theo thông báo của cơ quan thi hành án; các khoản nợ bị chiếm dụng mà người chiếm dụng chết, mất tích và không còn tài sản để trả nợ; khách hàng bị tuyên bố phá sản hoặc giải thể theo quy định của pháp luật.
Khi khách hàng vay vốn gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan theo quy định tại Quy chế này, NHCSXH chủ trì, phối hợp các tổ chức, cá nhân có liên quan tiến hành thẩm tra, lập biên bản đề nghị xử lý nợ bị rủi ro. Sau khi đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, NHCSXH đề xuất biện pháp xử lý. Trường hợp đề nghị xem xét xóa nợ, NHCSXH phải xác nhận về việc đã áp dụng mọi biện pháp thu hồi nợ nhưng không thu hồi được nợ và tất cả các thành viên cùng tham gia ký kết hợp đồng vay vốn không có khả năng trả nợ.
Đối với trường hợp khách hàng gặp rủi ro do một số nguyên nhân khách quan mà NHCSXH đã nhận đầy đủ hồ sơ theo quy định trước thời điểm Quy chế này có hiệu lực thi hành thì được tiếp tục xem xét xử lý rủi ro theo các quy định tại Quyết định số 50/2010/QĐ-TTg ngày 28/7/2010 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 161/2010/TT-BTC 20/10/2010 của Bộ Tài chính